Ghé thăm 3 làng nghề truyền thống giữa lòng TP.HCM

Thứ bảy, 09/08/2025 16:43 (GMT+7)

TP.HCM đang khoác lên mình chiếc áo mới nhưng đâu đó vẫn có nét xưa đang lặng lẽ song hành. Đó chính là hơi thở của các làng nghề truyền thống.

Hơi thở làng nghề giữa lòng phố thị - Ảnh 3.

Các bạn thích thú với chiếc lồng đèn “siêu to khổng lồ” ở tiệm lồng đèn của cô Tươi - Ảnh: NVCC

Tụi mình mời các bạn cùng ghé thăm 3 làng nghề truyền thống- 3 miền ký ức - để nghe kể những câu chuyện chưa bao giờ nhàm chán về việc gìn giữ cái nghề, cái tính và cả cái tình của người xưa còn mãi giữa thành phố hiện đại.

Làng lồng đèn Phú Bình - ngọn đèn tuổi thơ chưa bao giờ tắt

Mỗi độ Trung thu đến gần, con hẻm nhỏ Phú Bình, đường Lạc Long Quân (phường Hòa Bình, TP.HCM) lại rực rỡ ánh sáng.

Từ đầu xóm đến cuối hẻm, những chiếc lồng đèn giấy kiếng nhiều màu được phơi trên giàn tre. Ở đây, lồng đèn không chỉ là món đồ chơi mà là câu chuyện, là ký ức và tình yêu lặng thầm người thợ dành cho tuổi thơ của thành phố này.

Hơi thở làng nghề giữa lòng phố thị - Ảnh 1.

Những chiếc lồng đèn thú truyền thống mỗi dịp Trung thu - Ảnh: NVCC

Gia đình cô Tươi là một trong những gia đình đã gắn bó với nghề hơn 40 năm nay. “Nghề này mang từ Nam Định vào đây khoảng năm 1954. Ngày xưa, có tầm 30 nhà từ đầu xóm đến cuối xóm đều làm lồng đèn. Bây giờ thì ít lại rồi”, cô kể.

Cô tiếp lời: “Hồi nhỏ cô hay chơi trong đống tre, giấy kiếng của ba mẹ. Mùi hồ dán, tiếng kéo cắt giấy dường như đã thành ký ức, thành máu thịt người dân ở đây”.

Làm ra một chiếc lồng đèn, người thợ phải trải qua đủ công đoạn từ vót tre, uốn khung, dán giấy cho đến vẽ họa tiết. Tất cả đều làm thủ công. Công đoạn cực nhất là uốn tre thành hình các con thú vì vừa cần sự tỉ mỉ, vừa tốn nhiều thời gian.

Ngày nay, ngoài phố đầy rẫy đèn nhựa, đèn chạy pin phát nhạc nhấp nháy. Nhưng ở Phú Bình, người ta vẫn kiên trì thắp đèn bằng tay. Không để cạnh tranh mà là để gìn giữ một nghề, một nếp sống, một ký ức sâu thẳm không thể thay thế bằng nhựa hay pin điện.

Đã có lúc một số người dân Phú Bình tưởng nghề sẽ tắt vì khách vắng, đơn hàng thưa. Nhưng rồi cứ mỗi mùa trăng trở lại, trẻ con trong xóm háo hức đứng xem đèn mới, người thợ lại có cớ cầm kéo, cầm cọ, cầm những sợi tre và tiếp tục vẽ giấc mơ lung linh trên nền giấy kiếng.

“Chỉ cần một đứa trẻ cầm lồng đèn giấy rước Trung thu thì cái nghề vẫn còn. Đèn này không chỉ thắp sáng đường xóm mà còn thắp lại ký ức tuổi thơ của nhiều thế hệ và giữ hồn Việt giữa cuộc sống hiện đại”, cô Tươi cho biết.

May mắn thay, vẫn có những người trẻ như chị Thanh Hiền (con gái cô Tươi) lặng lẽ tiếp nối lửa nghề. Không trực tiếp ngồi dán đèn nhưng chị thường giúp ba mẹ quay những đoạn video nhỏ, dựng thành clip giới thiệu nghề truyền thống, đăng TikTok, Facebook để mọi người biết tới.

Hơi thở làng nghề giữa lòng phố thị - Ảnh 4.

Chị Thanh Hiền (con gái cô Tươi) bên lồng đèn cá chép - Ảnh: NVCC

Chỉ vài đoạn clip đơn giản như cảnh cô Tươi tỉ mỉ uốn từng thanh tre, vẽ từng nét con thú lên mặt lồng đèn đủ khiến người ta chững lại giữa dòng newsfeed vốn luôn vội vã.

Những hình ảnh tưởng như rất đỗi bình thường ấy lại chạm nhẹ vào miền ký ức ai đó, gợi nhớ cả một vùng tuổi thơ.

Làng bánh hỏi An Nhứt - khi hạt gạo kể chuyện làng

Ở xã Long Điền (TP.HCM) mỗi sáng sớm tinh mơ, mùi thơm dịu của bánh hỏi lan khắp xóm nhỏ. Người dân nơi đây vẫn gọi vui là “mùi quê hương”, bởi đó là hương thơm của những sợi bánh nhỏ li ti, trắng tinh được làm nên từ bao đời.

Trong căn bếp nhỏ nằm khuất sau hàng cau, cô Đào - người gắn bó với nghề làm bánh hỏi hơn 30 năm đang thoăn thoắt tráng bánh, ép sợi, rồi nhẹ tay lót từng lớp mỡ hành.

Cô là đời thứ ba trong một gia đình làm bánh hỏi truyền thống, bắt đầu từ bà ngoại cô từ năm 1954 đến nay.

“Muốn có bánh cho kịp bán buổi sáng, cô phải dậy từ 2-3 giờ. Khâu nào cũng cần phải đều và nhuyễn”, cô Đào chia sẻ.

Hơi thở làng nghề giữa lòng phố thị - Ảnh 6.

Mâm bánh hỏi hấp dẫn chuẩn người dân An Nhứt - Ảnh: TUYẾT NHI

Điểm làm nên nét riêng của bánh hỏi An Nhứt nằm ở chính sợi bánh: nhỏ mảnh, không quá dai, thoảng hương thơm dịu nhẹ của gạo nếp quê.

Một mẻ bánh ngon bắt đầu từ một hạt gạo lành. Gạo nếp được chọn kỹ, ngâm đúng 12 tiếng cho mềm rồi đem xay nước suốt 6-7 tiếng để ra được hỗn hợp bột mịn như sữa.

Sau đó là ép bánh qua khuôn đồng để cho ra sợi bánh nhỏ đều, không dính rồi hấp, phết mỡ hành. “Khâu nào cũng phải có tay nghề, làm mà vội là bể bánh như chơi”, cô nói thêm.

Mỗi ngày lò bánh nhà cô cho ra khoảng 200 - 300 kg, bán lẻ có, bán sỉ có. Nhưng ăn bánh hỏi sao cho “đúng điệu” lại là một chuyện khác.

Theo cô Đào, nhất định phải có thịt heo quay, chén nước mắm tỏi ớt, rau sống và miếng dưa leo mát lạnh, vậy mới ra chất An Nhứt.

Bạn Phạm Võ Quỳnh Như (lớp 9A3 Trường THCS Tân Hưng, phường Long Hương, TP.HCM) thích thú chia sẻ về món ăn yêu thích này: “Bánh hỏi An Nhứt không chỉ là món ăn sáng quen thuộc mà là cả tuổi thơ của mình luôn đó.

Từ nhỏ mình đã quen với cảnh bà lót lá chuối, gắp từng lớp bánh hỏi xếp lên đĩa. Mỗi lần đi đâu về, chỉ cần ăn một đũa là thấy như về lại An Nhứt rồi”.

Năm 2025, bánh hỏi An Nhứt được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Nhưng với người dân nơi đây, cái quý nhất không phải là tấm bằng khen mà là những mẻ bánh vẫn ra lò mỗi sáng, là khi con cháu vẫn chịu ngồi học từng công đoạn làm bánh và là lúc khách ăn xong vẫn nhớ quay lại.

Mỗi lần có bạn bè ở xa ghé chơi, cô Đào thường mang bánh hỏi ra mời. Không phải để khoe, mà vì: “Bánh hỏi như lời chào của xóm này, ai đến cũng mời một đũa để nhớ An Nhứt”.

Làng gốm Lái Thiêu - vẽ một miền ký ức bằng đất và lửa

Có những người vẽ tranh bằng màu, có người tạo hình bằng sáp, còn ở Lái Thiêu (phường Lái Thiêu, TP.HCM), người ta lại vẽ ký ức bằng đất và lửa.

Chú Chiêm Kiều đã có hơn 50 năm gắn bó với nghề gốm. Chú cười bảo chắc bản thân có gen di truyền, vì từ năm 6 tuổi nhìn thấy đất là mê.

“Hồi đó chú chỉ quanh quẩn trong xưởng gốm của ba mẹ, nhìn riết rồi bắt chước làm theo. Không ai dạy mà tay cứ tự biết nắn, biết xoay đất lúc nào không hay”, chú Kiều chia sẻ.

Hơi thở làng nghề giữa lòng phố thị - Ảnh 7.

Công đoạn pha trộn đất đòi hỏi sự đều tay để đất mịn và dẻo - Ảnh: TUYẾT NHI

Làm gốm nghe thì vui nhưng thật ra không dễ chút nào. Người làm nghề phải kiên nhẫn, nhẹ tay, nhẹ lòng và nhẹ cả giận.

“Gốm mà vội là hỏng, nóng tính là bể. Có khi nắn cả buổi sáng, cho vô lò là nứt. Lúc đó, chỉ biết thở dài rồi làm lại từ đầu”, chú chia sẻ thêm.

Hơi thở làng nghề giữa lòng phố thị - Ảnh 8.

Người thợ rưới lớp men lên sản phẩm trước khi đem đi nung để tạo độ bóng và bảo vệ hoa văn - Ảnh: TUYẾT NHI

Một món gốm thành hình phải trải qua nhiều công đoạn từ ngâm đất, nhào nặn, tạo hình, phơi khô, vẽ tay, tráng men đến nung lò.

Trong đó, khâu pha đất và canh lửa là bí quyết sống còn mà mỗi lò đều giữ riêng, như “bí mật nghề” truyền đời.

Chú Kiều chia sẻ rằng pha đất sao cho mịn, chắc mà không bị rạn, đó là thứ không sách vở nào dạy. Từng mẻ đất là cả chục năm kinh nghiệm đúc kết.

Nhưng chính sự nhẫn nại ấy làm nên cái hồn riêng của từng sản phẩm. Gốm Lái Thiêu có nét đặc trưng không lẫn vào đâu được.

Đó là hoa văn vẽ tay mộc mạc, tươi tắn, đậm màu làng quê như cảnh gà trống, hoa sen, cá chép, thiếu nữ… Từng nét vẽ không cần khuôn mẫu, không in sẵn mà là “vẽ theo cảm xúc”.

Trước năm 2000, lò nhà chú chủ yếu làm đồ gia dụng. Nhưng sau này, khi thị trường chuộng sản phẩm công nghiệp láng bóng, nhiều xưởng phải dừng. Riêng chú Kiều chuyển hướng sang gốm nghệ thuật, phục vụ đơn đặt hàng cao cấp, vừa giữ nghề vừa nâng tầm giá trị.

Năm 2021, nghề gốm Bình Dương được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Với chú Kiều, đó là niềm vui lớn nhưng cũng là nỗi trăn trở.

Hơi thở làng nghề giữa lòng phố thị - Ảnh 9.

Gốm Lái Thiêu - Ảnh: HƯNG THÀNH PHÁT

Chú cho biết: “Lò gốm từng đỏ lửa suốt đêm ở Lái Thiêu, giờ chỉ còn lại vài lò giữ lửa. Nhưng chú vẫn hy vọng với sự trân trọng của thế hệ trẻ hôm nay, ngọn lửa nghề sẽ không tắt mà còn được nhóm lên mạnh mẽ hơn trong tương lai”.

Hơi thở làng nghề giữa lòng phố thị - Ảnh 10.

Gốm Lái Thiêu được làm kỳ công - Ảnh: HƯNG THÀNH PHÁT

Giữ nghề, giữ hồn quê hương

Mỗi nghề là một mảnh ký ức của thành phố, kết tinh từ bàn tay khéo léo, trái tim kiên trì và cả những điều âm thầm như tình yêu nghề, niềm tự hào lặng lẽ.

Người làm nghề còn là người kể chuyện. Câu chuyện ấy không nằm trên bảng di sản hay trang quảng bá du lịch mà hiện hữu trong từng sản phẩm họ làm ra mỗi ngày.

Họ làm để tiếp nối, để gìn giữ và để kể lại cho chúng ta hôm nay nghe về những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương.

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên

    Đáp án: